Hỏa lực M47_Patton

Có một số xe M47 đời đầu dùng súng máy M2 đồng trục thay cho M1919. Ngoài ra, pháo chính của M47 Patton cũng không hoàn toàn tương tự nhau. Một số dùng pháo có khoá đầu nòng dạng phễu như M46, một số khác lại dùng loại có dạng chữ T, một số nữa lại dùng kiểu xy lanh. Nhưng tất cả các loại đều có một bậu hút khí nằm sát đầu nòng. Pháo M36 có thể dùng các loại đạn của pháo M3A1 của M46 Patton. Trong những năm 1950, 1960, quân đội Mĩ chủ yếu dựa vào loại đạn HEAT vì chúng có thể xuyên phá bất cứ loại tăng-thiết giáp đương thời. 

Để điều khiển pháo chính, xạ thủ có một bảng cân chỉnh đạn đạo cung cấp các chỉnh sửa khi nhắm bắn dựa theo các thông số như: sơ tốc của loại đạn chuẩn bị bắn, độ đặc của không khí, nhiệt độ và tốc độ gió. Các xe M47 đời đầu dùng hệ thống tìm tầm bằng kính nhắm lập thể (stereoscopic) M12. Tuy cùng chung nguyên tắc hoạt động với thiết bị tìm tầm M17 của xe tăng M60 Patton, nhưng thiết bị M12 cũng có những khác biệt. Trong khi thiết bị tìm tầm của M60 dùng 2 thấu kính tạo ra 2 hình ảnh của khu vực mục tiêu(một ảnh thật và một ảnh giả), rồi tổ lái sẽ xoay một tay vặn để mang 2 hình ảnh lại gần nhau cho đến khi chồng lên nhau, thông số(đo bằng lượng giác dựa trên góc của 2 thấu kính) về khoảng cách sẽ được tự động đưa vào máy tính đạn đạo. Còn ở loại thiết bị tìm tầm M12, quy trình tìm tầm bao gồm điều chỉnh (gọi là “flying the geese”/“lái đàn ngỗng”) 2 cặp các dấu gạch tạo hình chữ V cho đến khi chúng nằm chồng lên nhau. Điểm yếu chính của hệ thống tìm tầm kiểu này là quy trình điều khiển của loại thiết bị tìm tầm này rất phức tạp và đòi hỏi kỉ thuật cao. Một bộ phận dân số cũng không đủ thị lực để sử dụng thiết bị tìm tầm loại này(hơn 20% lính tăng Mĩ không thể dùng chính xác thiết bị M12). 

Thời gian từ lúc phát hiện mục tiêu đến khi khai hoả của xe tăng M47 và M48 Patton vào khoảng 15s. Hai loại tăng này có tỉ lệ bắn trúng phát đầu tiên vào khoảng 50% ở tầm 1500m.